Đà Nẵng là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, nằm tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Đây là thành phố trung tâm và lớn nhất của toàn bộ khu vực Miền Trung, đóng vai trò là hạt nhân quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung. Thành phố Đà Nẵng hiện là đô thị loại 1, là thành phố trung tâm cấp vùng và cấp quốc gia.
Về mặt địa lý, Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh với vai trò là trung tâm công nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền Trung, Tây Nguyên và cả nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Đà Nẵng cũng là đô thị biển và đầu mối giao thông rất quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không.[10]
Trong những năm gần đây, Đà Nẵng tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được đánh giá là thành phố đáng sống nhất Việt Nam.[11][12] Năm 2018, Đà Nẵng được chọn đại diện cho Việt Nam lọt vào danh sách 10 địa điểm tốt nhất để sống ở nước ngoài do tạp chí du lịch Live and Invest Overseas (LIO) bình chọn.
Địa danh Đà Nẵng (chữ Hán: 沱㶞 hoặc 陀㶞) được nói đến sớm nhất trong sách Ô Châu cận lục (in lần đầu năm 1555 của Dương Văn An), quyển 5, “Tự từ” (chữ Hán: 寺祠, chùa và đền), “Thần từ” (chữ Hán: 神祠, đền thờ thần), “Tùng Giang từ” (chữ Hán: 松江祠, đền Tùng Giang):
- Nguyên văn Hán văn:
松江祠。祠在思榮縣思客海門,並在廣南陀㶞海門。
- Phiên âm Hán Việt:
Tùng Giang từ. Từ tại Tư Vinh huyện Tư Khách hải môn, tịnh tại Quảng Nam Đà Nẵng hải môn
- Dịch nghĩa:
Đền Tùng Giang. Đền ở cửa biển Tư Khách, huyện Tư Vinh, còn một đền nữa ở cửa biển Đà Nẵng, Quảng Nam
“Đà Nẵng” trong Ô Châu cận lục không phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên gọi của một cửa biển.
Đà Nẵng là một tên dịch theo kiểu dịch âm kiêm dịch ý một phần, nếu phiên âm Hán-Việt thì đọc thành Đà Nhương, địa danh cần dịch đã được dịch bằng chữ Hán có âm đọc (âm Hán Việt) tương cận, ý nghĩa của chữ Hán dùng để dịch có liên quan nhất định với ý nghĩa của tên gọi được dịch. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng tên gọi Đà Nẵng xuất phát từ vị trí nằm ở cửa sông Hàn của thành phố. Đó là một biến dạng của từ Chăm cổ “Da nak”, được dịch là “cửa sông lớn”.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu về Chăm là Inrasara và Sakaya đã có những đề xuất khác. Inrasara (tức Phú Trạm, nhà thơ và nhà nghiên cứu Văn hóa Chăm Pa) cho rằng “Đà Nẵng” là biến dạng của từ Chăm cổ Đaknan. Đak có nghĩa là nước, nan hay nưn, tức Ianưng có nghĩa là rộng. Địa danh Đaknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông ở cửa sông Hàn. Còn nhà nghiên cứu Sakaya (tức Trương Văn Món) cho rằng “Đà Nẵng” có thể xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, Đakdơng – Đà dơng, có nghĩa là con sông. Đanang trong tiếng Chăm và Raglai cổ, cùng thuộc ngôn ngữ Malayo-Polynesia, có nghĩa là “nguồn”. “Đà Nẵng” là “sông nguồn”.[16] Nhưng nếu chúng ta xét về phương diện ngôn ngữ Chăm hiện đại, thì trong ngôn ngữ Ê-đê, Gia Rai thuộc nhóm Chamic vẫn còn lưu giữ cách gọi từ cổ như Krông Năng hay Rơ Năng hay Da Năng. Hiện tại, ngay cả một tỉnh đông người Chăm ở Campuchia vẫn giữ cách gọi một bến sông của người Chăm là “Kam pong Ch’Năng” và trở thành tên một tỉnh của Campuchia Kampong Chhnang có đông người Chăm sau tỉnh Kampong Cham. Tất cả các biến thể của ngôn ngữ Chăm Pa từ “Da Năng” thành Ênang, Ch’nang, R’nang trong ngôn ngữ Chăm, Gia Rai, Ê đê, Raglai ngày nay đều mang nghĩa là bình yên, thanh bình. Kampong Danang tức là Bến sông Thanh bình. Da Nang trong tiếng là nương tựa, “vì 2 ông Sakaya và Inrasara là người Chăm vùng Panduranga (Phan Rang) nên không hiểu rõ từ Danang trong tiếng người Chăm chuẩn, vì tiếng Chăm Panduranga gọi Danang thành Danưng”.
Người Trung Quốc gọi Đà Nẵng là Hiện Cảng, vốn được viết bằng chữ Hán là 蜆港, về sau được đổi thành 峴港. Thời xưa tàu thuyền Trung Quốc đi Đà Nẵng thường lấy hòn Sơn Trà làm mốc định vị phương hướng. Hòn Sơn Trà có hình dáng giống con hến nên người Trung Quốc đã gọi nơi đây là “Hiện Cảng” (蜆港), có nghĩa là “Bến Hến”. Về sau một số người không hiểu rõ nguồn gốc của tên gọi này, thấy xung quanh Đà Nẵng có nhiều núi non bao bọc nên đã thay chữ “hiện” 蜆 có nghĩa là “con hến” bằng chữ “hiện” 峴 là từ dùng để chỉ núi nhỏ mà cao.
Một tên gọi khác được đặt cho Đà Nẵng là Cửa Hàn (dịch nghĩa “cửa của sông Hàn”). Theo tác giả Võ Văn Dật thì từ Hàn đã được Việt hóa từ cách đọc theo tiếng Hải Nam của địa danh “Hiện Cảng” 蜆港 là “Hành Càng” hay “Hàn Càng”.
Giáo sĩ Buzomi – đến Đà Nẵng năm 1615 – đã gọi nơi này là Porte de Kéan. Bản đồ châu Á do Sanson d’Abbeville vẽ năm 1652 ghi Đà Nẵng là Turaon. Giáo sĩ Christoforo Borri – đến Đà Nẵng năm 1618 – khi viết hồi ký về xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn thì đã gọi Đà Nẵng là Touron. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người từng lui tới Đà Nẵng nhiều lần và đã gọi nơi này là Turon; trong bản đồ của ông ghi là “Kean” (“Kẻ Hàn”, kẻ trong “kẻ chợ”).
Cho đến giữa thế kỷ XIX, địa danh “Đà Nẵng” vẫn còn là tên gọi của một vùng lãnh thổ gắn liền với một cửa biển, một vũng nước sâu, một “cửa quan” hay một “tấn sở”. Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến cả Tự Đức nghiêng về ý nghĩa phòng thủ của nơi này hơn là phát triển Đà Nẵng thành một đô thị sầm uất. Vì vậy mà thời kì này Đà Nẵng được gọi là một “tấn”, tức là một vị trí trọng yếu phòng thủ.[21] Cho đến khi Pháp khai hỏa xâm chiếm thì Đà Nẵng vẫn chỉ là một vị trí, một địa bàn chiến lược về quân sự và chưa từng là một địa danh chỉ đơn vị hành chính.
Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp thuộc, Tourane là tên chính thức của Đà Nẵng. Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của từ Tourane. Thứ nhất đó là lối nói trại từ chữ Châu Ranh (chỉ ranh giới Việt Nam-Chiêm Thành). Ý kiến thứ hai cho rằng nó bắt nguồn từ một làng có tên là Thạc Gián bị viết lầm là Tu Gián. Ý kiến thứ ba giải thích rằng Tourane chỉ địa danh của một nơi vốn có một cái tháp (tour) trên cửa Hàn.
Trong văn hóa dân gian, Vũng Thùng là một tên thông tục khác để đề cập đến Đà Nẵng (hiện nay Vũng Thùng là tên gọi của một vùng biển nhỏ ở phía đông bắc phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà dùng để neo đậu tàu thuyền của ngư dân). Các nhà Nho nói chữ thì gọi là Trà Áo, Trà Sơn hay Đồng Long Loan.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tourane đổi tên thành Thái Phiên – nhà yêu nước nổi tiếng của đất Quảng Nam đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Tuy nhiên vào ngày 9 tháng 10 năm 1945, Hội đồng Chính phủ ra quyết nghị giữ nguyên tên cũ của các đơn vị hành chính từ cấp kỳ, thành phố, tỉnh, huyện trong cả nước để tiện việc thông tin liên lạc và công văn giấy tờ. Thành phố trở lại tên gọi cũ Đà Nẵng.
Xem chi tiết thêm thông tin link wiki
Mytour.vn | Klook – Du lịch & Booking | Gotadi – Booking | Traveloka – Booking
Best Price For Traveler | VietJets Air Booking | Vietnam Airlines Booking